More

    Giuse Nguyễn Ðình Nghi (1771-1840)

    Giuse Nguyễn Ðình NghiDanh sách & tiểu sử 118 Vị Tử Đạo Việt Nam

    Giuse Nguyễn Ðình Nghi, Sinh năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.

    Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN – Linh mục – (1790 – 1840)

    Điều bận tâm nhất trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than với mọi người rằng: “chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin từng con một quá…”. Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị bắt.

    Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI – Linh mục – (1793 – 1840)

    Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : “Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi”.

    Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : “Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai”(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.

    Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.

    Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…

    Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: “Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu”. Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.

    Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH – Linh mục – (1760 – 1840)

    Sau 80 năm phụng sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã trả lời cho người lính hỏi: “Ông có phải là đạo trưởng không”, bằng lời xác nhận “Phải tôi đây”. Lời xác nhận đó đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi gương.

    Martinô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết định xin đi tu dâng mình cho Chúa.

    Thày Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.

    Theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi. ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các tín hữu kính nể và yêu mến.

    Một hôm cha bị nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.

    Tai họa cho làng Kẻ Báng.

    Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền đi tố giác với quan.

    Ngày 30.5.1840, theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cải “hang cùng ngõ hẻm”. Ngày đầu tiên không tìm thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát tiếp.

    Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.

    Về cha Thịnh thì giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì. Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ cha khai là : “Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm danh được”. Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : “Ông có phải là đạo trưởng không ?” Cha liền đáp: “Phải tôi đây”. Thế là cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa, trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.

    Vững vàng tuyên tín…

    Suốt một tháng đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng: “Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể làm theo lời quan được”. Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.

    Ba ngày sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói : “Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết”. Cha Nghi trả lời: “Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập Giá, chúng tôi không dám”. Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.

    Hạnh phúc thiên thu.

    Thấm thoát ba cha ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.

    Ngày 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.

    Thi thể hai cha Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.

    Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.

    Nguồn từ thư viện Đa Minh

    Trường thi tử Đạo.

    Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
    Ðể điều đình hợp tác hai bên
    Vua Minh Mạng lại giết thêm
    Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

    Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
    Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
    Quang Khanh chuộc tội thấy cần
    Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

    Cho đập phá tháng ngày cơ sở
    Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
    Tội nhân khét tiếng trong vùng
    Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

    Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
    Ði đó đây sớm tối săn tin
    Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
    Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

    Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
    Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
    Mười lăm tuổi phải tuân hành
    Toàn là nam giới lão thành quý ông

    Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
    Và tập trung ngồi tại sân đình
    Xung quang canh gác quân binh
    Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

    Các phụ nữ lo đường tiếp tế
    Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
    Quang Khanh cho lính đi săn
    Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

    Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
    Cả quan quân như tưởng rút quân
    Nhưng người tố quyết không lầm
    Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

    Xin lục soát qua sang ngày nữa
    Tôi cam đoan xin hứa thành công
    Phá nhà phá vách tây đông
    Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

    Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
    Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
    Bước qua Thánh Giá lệnh quan
    Bà này ngoại giáo dám làm được tha

    Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
    Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
    Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
    Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

    Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
    Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
    Thấy Cha sức yếu tuổi già
    Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

    Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
    Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
    Ði theo giúp đỡ hy sinh
    Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

    Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
    Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
    Một cai đội đã nghi ngờ
    Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

    Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
    Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
    Hai đồng bạn đã gông đeo
    Bọn quan quân lính hò reo vào làng

    Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
    Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
    Dân Làng Kẻ Báng âu lo
    Mất người mất của đầy no ơn lành

    Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
    Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
    Lần này đạo trưởng bắt ba
    Còn hai người nữa toàn là giáo dân

    Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
    Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
    Mẹ cha sắp xếp coi trông
    Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

    Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
    Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
    Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
    Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

    Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
    Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
    Gặp Gia Long để họp hành
    Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

    Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
    Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
    Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
    Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

    Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
    Cha bị đau cháu đến đón về
    Gia đình Kẻ Báng nhà quê
    Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

    Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
    Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
    Học xong Thầy giảng trong miền
    Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

    Rồi sau đó được về thần học
    Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
    Cha Nghi phục vụ khắp miền
    Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

    Cha không muốn để ai liên lụy
    Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
    Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
    Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

    Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
    Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
    Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
    Vào tu chủng viện học hành thông minh

    Thầy chịu khó chân tình phục vụ
    Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
    Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
    Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

    Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
    Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
    Trình Xuyên phụ trách đảm đang
    Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

    Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
    Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
    Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
    Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

    Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
    Khi quan quân vây khốn làng này
    Hai ông lanh lẹ tiếp tay
    Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

    Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
    Bủa lưới vây phân tán vào lùng
    Cha con bị bắt gom chung
    Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

    Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
    Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
    Một lòng vì Chúa sắt son
    Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

    Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
    Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
    Lý hình được lệnh chém đầu
    Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

    Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
    Năm chứng nhân đều được tuyên phong
    Gian nan cực khổ chịu chung
    Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

    Lời bất hủ:

    – Trong thời bách hại, cha thường than thở với mọi người rằng: “Chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tên từng con một quá.”. Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từng tín hữu của mình được.

    – Quan gọi cha ra công đường bắt bước qua Thập giá, cha đều can đảm từ chối, cha nói: “Tôi đã bằng này tuổi đầu, mà còn sợ chết nữa sao! Tôi không thể làm theo lời quan được”.

    – Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm ước mong tử đạo, nhưng ngài nói: “Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu”. Khi đi làm mục vụ cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt. Lần bị quan tra hỏi, cha Nghi trả lời: “Thưa quan thương, chúng tôi nhờ, nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mồ, còn bước qua Thập giá chúng tôi không dám”.

    – Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: “Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì”. Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

    Hot Topics

    Related Articles