More

    Vincentê Phạm Hiếu Liêm

    Vincentê Phạm Hiếu LiêmVincentê Phạm Hiếu Liêm, Sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 7 tháng 11 năm 1773 tại Ðồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm. Ngày 20.05.1906 Đức Piô X suy tôn các ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 7/11.

    Đọc lại chuyện các anh hùng tử đạo, chúng ta thấy các ngài làm chứng cho Chúa Kitô hai lần: bằng mạng sống và bằng lời nói. Các vị đã nói để tuyên xưng niềm tin của mình, có vị giải thích những dư luận sai lầm, có vị cắt nghĩa giáo lý. Nhưng chuyện hy hữu nhất trong chuyện 117 thánh tử đạo Việt Nam, là linh mục Vinh Sơn Liêm và một linh mục bạn, cha Jacinto Gia, đã tranh luận suốt ba ngày với đại diện ba tôn giáo lớn ở nước ta khi đó, là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo.

    Con người bởi đâu mà có ? Sống ở đời để làm gì ? Và chết rồi đi về đâu ? Đó là ba vấn đề lớn của cuộc nhân sinh, đã được đem ra trao đổi trong Hội Đồng Tứ Giáo. Những lời lẽ nhã nhặn và sáng sủa, những phân tích sâu sắc về lịch sử với các trích dẫn chính xác kinh điển của Khổng Tử, Lão Tử và Phật Giáo, đã được ghi lại trong cuốn “Hội Đồng Tứ Giáo” từng tái bản tới 14 lần tại Sài Gòn (1), sẽ mãi mãi nhắc chúng ta nhớ đến cha Vinh Sơn Liêm, tác giả cuốn sách, là người tham gia cuộc trao đổi, và là linh mục Việt Nam tử đạo đầu tiên.

    Vinh sơn Phạm Hiếu Liêm mở mắt chào đời năm 1732 tại Thôn Đông, làng Trà Lũ, Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam Hạ. Thân phụ cậu, ông Antôn Doãn, là một thân hào trong thôn. Thân mẫu cậu, bà Maria Doãn, một người mẹ đạo đức, đã hết mình với việc giáo dục con cái. Năm 12 tuổi, cậu Liêm vào tu trong nhà Đức Chúa Trời ở Lục Thủy. Qua sáu năm học tập, cậu đã tỏ ra là người thông minh đạo đức, nên được các cha đòng Đaminh thời đó đang phụ trách giáo phận Đông Đàng Ngoài để ý. Cha chính Espinnoza Huy đã chọn cậu vào số các thanh niên hưởng học bổng của Tây Ban Nha, gởi đi du học Manila (Phi Luật Tân) tại trường Juan de Letran.

    Sau ba năm học thành công xuất sắc, thày Liêm xin gia nhập dòng Đaminh và lãnh tu phục ngày 09.09.1753. Năm sau, thày tuyên khấn trọng thể cùng với ba tu sĩ đồng hương (2) và lấy biệt hiệu là Vinh Sơn Hòa Bình (Vincente de la Paz). Tiếp đó, thày Vinh Sơn học thêm bốn năm thần học và được thụ phong linh mục năm 1758.

    Thụ phong linh mục rồi, cha Liêm liền chuẩn bị trở về phục vụ quê hương. Ngày 03.10 năm đó, khi giã từ các giáo hữu và thân hữu để xuống tàu hồi hương, cha không thể giấu nổi niềm xúc cảm với bao lưu luyến những bạn bè quen thuộc trong tám năm qua. Về đến Trung Linh ngày 20. 01.1759, cha đã không cầm nổi nước mắt, vì vui mừng được gặp lại cha chính Huy ra đón tận bến đò, được tái ngộ cùng thân quyến, đồng bào, xóm làng, và nhất là giáo hữu đang nôn nao đón chờ ngày “vinh quy” của vị linh mục du học hải ngoại.

    Về Việt Nam, trước hết cha Vinh Sơn được bổ nhiệm làm giáo sư chủng viện Trung Linh. Cha đã đem hết tài trí và nhiệt thành truyền đạt cho các chủng sinh những kiến thức cha đã thu thập được. Nhưng nguyện vọng của linh mục Vinh Sơn Hòa Bình lại là loan báo Tin Mừng bình an cho anh em. Và chẳng bao lâu, cha rời chủng viện dấn thân vào cánh đồng truyền giáo. Cha lần lượt đảm nhiệm các xứ Quất Lâm, Lục Thủy, Trung Lễ, Trung Linh, Trung Lao, và từ khi cha Jacinto Gia bị bắt, cha kiêm luôn cả vùng Lai Ổn.

    Hoạt động tông đồ của cha không chỉ hạn hẹp trong các giáo xứ, mà còn mở rộng đến các làng ngoại giáo, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách, nhất là từ thời chúa Trịnh Sâm (1767 – 1782). Tại bất cứ nơi nào, cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm, cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ.

    Dầu thành công trong công tác, cha Liêm không bao giờ tự mãn với chính mình. Trong các thư của cha, ta còn đọc được : “Xin Đức cha và cha bề trên cầu nguyện cùng Chúa cho con, khi dâng lễ và trong kinh nguyện, để mỗi ngày con được hòan thiện hơn, vui lòng đón nhận những khốn khó theo ý Chúa”. Một ông hoàng, em thứ sáu của chúa Trịnh Doanh trước khi từ trần đã lãnh bí tích Thánh tẩy nhờ công của các vị thừa sai, cha Liêm đón nhận tin đó như niềm vui của Giáo Hội Việt Nam, và loan báo cho bề trên Giám tỉnh ở Manila (3).

    Năm 1773, cha Vinh Sơn Liêm đang đi giảng cho họ Lương Đống, chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Các quan nghe tin, liền cho ông Điều Cam đem quân vây bắt cha tại nhà ông Nhiêu Nhuệ ngày 02.10. Sau một trận đòn chí tử, họ trói cha và hai cậu giúp lễ Matthêu Vũ, Giuse Bích, rồi đem nộp cho Chánh tổng Xích Bích. Viên Chánh tổng giam cha 12 ngày không thấy các tín hữu đưa tiền chuộc, sau đó mới chịu giải lên Phố Hiến nộp cho quan trấn. Ở đây cha Liêm gặp một linh mục cùng dòng, cha Castaneda Gia đã bị giam ở đó. hai anh em sung sướng cùng nhau chia sẻ ngọt bùi trong cảnh tù tội.

    Ngày 20.10 quan trấn bắt hai cha mang chiếc gông có ghi bốn chữ “Hoa Lang Đạo Sư”, rồi trao cho quan phủ Thần Khê giải hai cha và hai cậu giúp lễ về kinh đô Thăng Long, ra mắt chúa Trịnh Sâm. Chính tại đây đã diễn ra Hộ Đồng Tứ Giáo.

    Có một quan lớn là chú của chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Mẹ của quan lớn, bà Thượng Trâm, quê xứ Hải Dương, vốn có đạo. Nhiều lần bà khuyên con tòng giáo. Quan lớn liền nảy ra sáng kiến triệu tập đại diện bốn tôn giáo để trình bày về đạo của mình. quan nói: “Lòng ta chuộng sự thật muốn biết đạo nào là đạo chính để thờ phượng”. Cuộc trao đổi kéo dài ba ngày, mỗi ngày một vấn đề về nguồn gốc con người, mục đích cuộc đời và đời sau của mỗi người. cha Liêm và cha Gia đại diện đạo Thiên Chúa đã khéo léo trình bày đến nỗi quan lớn phải trầm trồ khen ngợi. Nhưng vì biết Phủ Chúa vẫn cấm đạo, nên quan vẫn ngần ngại chưa theo (4).

    Sau đó ít bữa, hai cha có cơ hội để nói về đạo với Thái Tôn, mẹ của Chúa Trịnh Sâm. Bà vì tò mò, đã cho vời các ngài vào. Không nói rõ nội dung buổi nói chuyện ra sao, nhưng cuối cùng Thái Tôn hỏi: “Nếu chỉ có đạo các thày là đạo thật thì những người không theo đạo ấy, chết rồi đi đâu?”. Cha Liêm đáp: “Bẩm bà, sa hỏa ngục ạ”.(5) Nghe thế, Thái Tôn Dương Hậu đùng đùng nổi giận, bà dùng uy tín ép con là Tĩnh Đô Vương phải xử tử hai vị linh mục. Do đó, ngày 04.11, Tĩnh Đô Vương đã lên án trảm đã lên án trảm quyết hai cha, hai cậu giúp lễ bị kết án lưu đầy, đến khi nộp 100 quan tiền chuộc thì được trả tự do.

    Ngày 07.11, hai cha bị đem đi xử, dân chúng đi xem rất đông. Khi đoàn người dừng trước hoàng cung, một viên quan đọc bản án. Theo phong tục thời đó, lúc này vua có thể ân xá cho tội nhân. một viên quan khác lớn tiếng nói : “Hoa Lang Đạo đã bị nghiêm cấm, nhưng cho đến nay, chưa người dân Việt nào bị xử tử vì đạo này (6) nên vua đại xá cho tên Liêm”. Nghe thế cha Liêm vội lên tiếng thưa rằng:

    “Cha Gia bị án trảm quyết vì lẽ gì thì cũng phải lên án trảm quyết cho tôi vì lẽ đó. Cha Gia là đạo trưởng, tôi cũng là đạo trưởng. Nếu luật nước không kết án tôi thì cũng không được kết án cha Gia. Vì tôi là công dân nước Việt, lẽ ra tôi phải giữ luật nước hơn ngài. Nhưng nếu giết cha Gia, còn tôi lại tha, án của vua không công bằng. Yêu cầu tha thì tha cả hai, giết thì giết cả hai. Thế mới là án công bình”.

    Những lời lẽ minh bạch của cha Liêm có thể là phát xuất từ tình nghĩa huynh đệ, không muốn xa lìa người anh em, cũng có thể là lời xin tha cho linh mục bạn, vì nhiều người chứng kiến cảm động và muốn cả hai cha được tha. Nhưng lời lẽ đó cũng có thể do lòng ao ước muốn dâng hiến chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật.

    Dầu sao thì bản án vẫn không thay đổi. Hai vị anh hùng đức tin đã vui mừng đọc kinh Tin Kính và hát kinh Lạy Nữ Vương trên đường ra pháp trường Đông Mơ. Những nhát gươm định mệnh, chứng tá tuyệt hảo cho Đức Kitô. Thi hài các ngài được rước về an táng tại Trung Linh.

    Ngày 20.05.1906 Đức Piô X suy tôn các ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

    Riêng thánh Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, nhiều trường học đã nhận ngài làm Bổn Mạng, trong đó có trường cao đẳng Juan de Letran ở Phi Luật Tân, nơi ngài từng là học sinh. Thánh nhân quả là ánh vinh quang của dân tộc Việt nơi hải ngoại.

    Nguồn từ thư viện Đa Minh

    Trường thi tử Đạo.
    Giacintô Gia thừa sai linh mục
    Năm Quý Hợi (1743) quê thực (Tây) Ban Nha
    Bạn thơm trong lúc xa nhà
    Cũng chức linh mục tên là Phạm Liêm

    Linh mục Liêm quê hương Trà Lũ
    Sinh Nhâm Tý (1732) quê phủ Thiên Hương
    Giảng rao lời Chúa đảm đương
    Trong thời cấm đạo lệnh thường cấm nghiêm

    Hai linh mục Gia, Liêm tử đạo
    Là Thừa sai loan báo đức tin
    Người Tông đồ Chúa dõi tìm
    Từ khi tuổi nhỏ đã xin nhập dòng

    Hết trung học vào trong tu viện
    Mười bảy tuổi trực diện khấn xong
    Trao dồi tu đức cầu mong
    Thừa sai giảng đạo thuộc dòng Ðaminh

    Ðược tuyển mộ nhiệt tình hăng hái
    Cậu lắng lo ái ngại mẹ già
    Báo tin anh, em đã đi xa
    Nhờ huynh coi sóc mẹ già chốn quê

    Hai năm chuẩn tràn trề ơn gọi
    Ðược thụ phong Chúa rọi ơn thiêng
    Cha Gia sứ mạng rao truyền
    Á Ðông tiên khởi là miền Trung Hoa

    Rồi sau đó học đà tiếng Việt
    Lén lút vào tới miệt Bắc Kỳ
    Giúp cho kẻ liệt Cha đi
    Giữa đường chúng bắt tức thì trục ngay

    Về Macao đất này Trung Quốc
    Bề trên sai Cha thuộc Việt Nam
    Vâng lời ý Chúa đã ban
    Trung Linh phục vụ cộng đoàn giáo dân

    Số tín hữu xa gần đông đúc
    Trên chục ngàn diễm phúc ba Cha
    Hai Cha Việt, với Cha Gia
    Sáu mươi họ đạo thật là quá đông

    Dù vất vả Ngài không quản ngại
    Giúp đỡ người trở lại đức tin
    Ba Cha cộng tác hướng tìm
    Thoát tay kẻ cướp tránh nhìn lính quan

    Giúp kẻ liệt gian nan khó tránh
    Ðến làng Non, gặp cánh Lê Ðô
    Tên tướng cướp chúng ập vô
    Cha con bỏ chạy trốn vô làng này

    Làng Kẻ Gia mới hay Phật Giáo
    Một bà già chu đáo nhận ngay
    Giấu cha mới được một ngày
    Giúp Cha ẩn trốn, chẳng may chồng về

    Sợ liên lụy ông Bê tố giác
    Với Lê Ðô giáo mác bắt Cha
    Chúng đấm đá đè xuống nhà
    Trói tay dẫn giải đi qua nhà mình

    Hắn xỉ nhục coi khinh nhân nghĩa
    Không cho ăn, tứ phía đòn roi
    Hai ngày bỏ đói chẳng coi
    Thí cho chút cháo có mòi tỉnh hơn

    Cha nhắn gởi cám ơn đừng chuộc
    Cướp Lê Ðô bắt buộc giải quan
    Nhốt cũi tre thật dã man
    Ðem ra phơi nắng chói chan trưa hè

    Có một nhóm tin nghe tìm đến
    Học tinh thông cập bến luận tranh
    Cha Gia đạo lý rất rành
    Rất hay triết lý lẹ nhanh kịp thời

    Con quý tử tới nơi chửi rủa
    Ngã vật ngay nằm ngửa van xin
    Chính quan thấy vậy đứng nhìn
    Muốn đòi tiền chuộc nói tìm giáo dân

    Năm trăm quan một lần trao đủ
    Sẽ trả ông thân chủ tự do
    Thả không thì thả thì cho
    Về kinh chẳng sợ, chẳng lo, chẳng phiền

    Sau hai tháng giam miền Kẻ Bích
    Thân xác Cha vết tích roi đòn
    Tinh thần sa sút héo hon
    Khô khan cầu nguyện xói mòn niềm tin

    Trong cũi chật mới nhìn tưởng khỉ
    Giải về kinh chước quỷ mưu ma
    Xin ơn phù trợ Cha Gia
    Qua cơn bão táp mưa sa giãi dầu

    Linh hồn cảm thấy sầu thống khổ
    Sợ ngã lòng Chúa đổ Thánh Linh
    Cho con gánh chịu cực hình
    Khẩn cầu Ðức Mẹ Ðồng Trinh hộ phù

    Ðang khi đó lù lù cũi khác
    Cha Sơn Liêm hốc hác ngồi trong
    Người bạn cùng học tu dòng
    Là niềm khích lệ ở trong nhà tù

    Sau lính giải Thầy Tu về phủ
    Áp tải Cha đông đủ quân binh
    Trước tòa quan lớn tâu trình
    Huyện quan lầm tưởng là mình có công

    Quan lớn nói giao ông giam giữ
    Phải thả ra và cử người canh
    Lệnh trên nghiêm túc tuân hành
    Cùm gông xiềng xích chỉ dành vật thôi

    Tại Phủ Chúa liên hồi thăm viếng
    Khắp giáo dân nghe tiếng các Ngài
    Thời cơ giảng đạo Chúa sai
    Huyện quan tức bực la hoài đuổi đi

    Ít sau đó Sư đi tranh luận
    Cụ Ðồ Nho mãi tận nơi xa
    Gay go đối chất với Cha
    Ðây là ý muốn của bà Thượng Trâm

    Mong Hoàng Tử sưu tầm đạo thật
    Là đề tài đệ nhất đưa ra
    Con người nguồn gốc đó mà
    Trần gian cuộc sống chúng ta làm gì

    Sau khi chết còn chi hay hết
    Cuộc luận tranh đúc kết vô tư
    Hội đồng tứ giáo danh sư
    Xin coi cuốn sách rất ư rõ ràng

    Hai đạo trưởng hiên ngang trảm quyết
    Tại pháp trường thắm thiết chúc nhau
    Phép lành trao đổi đời sau
    Lý hình đầu chém phép mầu Chúa ban

    Vác Thánh giá thế gian đã trọn
    Chúa thưởng công đã chọn hai Cha
    Ðón về Nhan Thánh Thiên Tòa
    Tử đạo Quý Tỵ (1773) chan hòa đức tin

    Lời bất hủ: Chánh tổng làng Gia Ðạo là Xích Bích quan đòi 3 ngàn tiền chuộc. Cha đáp: “Quan muốn tha thì tha chứ tôi không có tiền chuộc. Tôi sẵn sàng chịu mọi gian khổ kể cả cái chết”. Chánh tổng nộp lên quan trấn, quan trấn truyền đóng gông với dòng chữ “Hoa Lang Ðạo Sư” (thời đó, 1773 còn gọi đạo Công giáo là Hoa Lang và gọi các Linh mục là Ðạo Sư).

    Hot Topics

    Related Articles